Các vật liệu cứng như sành, sứ, thủy tinh đã được các nghệ nhân xứ Huế khéo léo tạo hình, phối màu hợp lý trở nên mềm mại, óng ả trên các công trình này.
Mô tả Phú Xuân đầu thế kỷ XVIII, sách Phủ Biên Tạp Lục do nhà bác học Lê Quý Đôn chủ biên đã viết: “…Nơi đây cung điện, lầu gác, mái lớn nguy nga, đài cao sặc sỡ, tường bao quanh, cửa bốn bề chạm khắc, vẽ vời khéo léo vô cùng… Tường trong, tường ngoài đều xây dày mấy thước, lấy vôi mật và mảnh sứ đắp thành hình rồng, phượng, lân, hổ, cỏ hoa…”. Còn ngoài dân gian, những người thợ Huế từ lâu đã dùng những mảnh sành, sứ hay gốm để trang trí các công trình, trước khi nghệ thuật này được đưa vào các nghệ thuật cung đình của nhà Nguyễn.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 được coi là đỉnh cao của khảm sành sứ xứ Huế khi phần lớn các công trình kiến trúc giai đoạn này đều được khảm các chất liệu như vậy. Tiêu biểu nhất là nghệ thuật khảm sành ở lăng Khải Định, nơi được đánh giá là đỉnh cao với phần nội thất trong cung Thiên Định. Ở đây, các nghệ nhân xứ Huế đã trang trí với mật độ dày đặc sành sứ và thủy tinh màu.
Chính tẩm và ngự tẩm trong lăng là nơi đặt tượng đồng vua Khải Định trên bệ rồng, phía dưới là huyền cung tức là nơi chôn thi hài nhà vua. Pho tượng đồng của nhà vua đặt trên áng thờ theo tỉ lệ 1:1, đúc tại Pháp và dát vàng bởi những nghệ nhân Huế. Chiếc bửu tán bên trên pho tượng đồng ở chính tẩm được trang trí khảm sành, sứ với những đường lượn mềm mại, khiến người xem có cảm giác nó có thể xao động trước gió. Ít ai biết rằng, nó là một khối bê tông cốt thép nặng gần 1 tấn.
Bởi phần lớn các chi tiết đều được trang trí bằng nghệ thuật khảm sành sứ đã khiến du khách khi đến thăm lăng Khải Định đều phải trầm trồ. Từ các mảnh vỡ, người thợ Huế đã nâng chúng lên thành nghệ thuật khảm sành. Họ đã kỳ công gọt, tỉa các vật liệu khô cứng này thành các họa tiết tỉ mỉ, không bị giới hạn bởi nét tô vẽ hay vôi vữa, tạo nên những tác phẩm có hồn, linh động, lộng lẫy. Như cách trang trí lăng Khải Định, tất cả đều dung hợp trong các tổ hợp sáng tạo của nghệ nhân từ những mảnh sứ với nhiều màu sắc dù được nhập từ Trung Hoa, Nhật Bản…
Việc kết dính mảnh vỡ của sành sứ lại với nhau bằng các chất liệu như vôi hàu, mật mía cũng là một trong những kỹ thuật độc đáo của khảm sành sứ Huế. Cách cẩn, khảm tưởng như tùy hứng ấy thực tế lại được tính toán một cách cẩn trọng, sao cho độ phối màu chuẩn xác nhất. Vậy nên, cũng là rồng, phượng, hoa lá nhưng tuyệt nhiên không một tác phẩm khảm sành sứ nào giống nhau.
Dẫu qua rồi cái thời vàng son nhưng nghệ thuật khảm sành sứ ở Huế, bên cạnh lớp nghệ nhân xưa còn lại, đã có hẳn lớp thợ trẻ tay nghề cao. Việc phục hồi nghề khảm sành sứ với họ không chỉ là chuyện mưu sinh nữa mà còn là cái hồn cốt tinh anh của người Huế. Họ đã góp phần khôi phục lại một số công trình hoang phế trở thành những công trình tuyệt mỹ, từ các mảnh vỡ của đời thường.